Văn miếu là một trong những loại hình di tích lịch sử văn hóa, nơi tôn thờ các nhà khoa bảng hiển danh và những bậc tiên hiền về nho học. Văn miếu Sơn Tây cũng chính là một địa điểm như thế. Trước đó, Văn Miếu Sơn Tây đã từng được triều đình nhà Nguyễn cho xây dựng tại làng Cam Thịnh, đến đời vua Thiệu Trị 1847 thì lại được dời về xây tại làng Mông Phụ (Cam Giá Thịnh). Đời vua Thành Thái năm thứ 3 thì được xây lại lần thứ ba tại đất Văn Miếu ngày nay. Công trình được khánh thành vào năm 1892.
Văn Miếu Sơn Tây được triều đình cho xây dựng để tôn thờ Đức thánh Khổng Tử, tứ phối (bốn học trò xuất sắc của Đức Thánh là: Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử) và 72 vị hiền triết, cùng các danh nhân khoa bảng thuộc khu vực xứ Đoài đã đỗ đạt các danh hiệu qua các thời kỳ của chế độ phong kiến. Theo một số tài liệu ghi lại thì có khoảng 288 vị Tiến sĩ được khắc trên bia đã lưu tại Văn Miếu Sơn Tây. Đây cũng là nơi ghi dấu những buổi đàm văn, đàm đạo Khổng, nơi chuyển tải tinh thần hiếu học xưa của người dân xứ Đoài.
Theo một số tài liệu để lại, đây là công trình tiêu biểu về văn hóa, tâm linh, có quy mô bề thế và mang tầm quan trọng giống như Văn Miếu Xích Đằng (Hưng Yên), Mao Điền (Hải Dương), Bắc Ninh và một số nơi khác. Văn Miếu Sơn Tây được xây dựng trên một khu đất rộng, hình chữ nhật, xung quanh có tường xây bằng gạch đá ong bao quanh, nhìn về hướng Nam nơi có dòng Tích giang thơ mộng chảy qua. Toàn bộ di tích được dàn trải trên một trục thần đạo với nhiều hạng mục bề thế uy nghiêm chạy dọc theo hướng bắc- nam. Các công trình được xây dựng bằng chất liệu gạch đá ong, một chất liệu truyền thống của xứ Đoài nên mang một vẻ đẹp riêng hiếm có. Trải qua các giai đoạn lịch sử, nhất là sau khi hòa bình lập lại năm 1954, di tích Văn Miếu chịu nhiều sự tác động của tự nhiên và xã hội nên các hạng mục công trình đã bị xuống cấp, biến dạng.
Căn cứ vào các tài liệu gốc còn lại về Văn Miếu Sơn Tây cũng như tham khảo các di tích Văn Miếu ở các địa phương khác. Năm 2008, UBND thị xã Sơn Tây đã chỉ đạo các phòng, ban, ngành của thị xã phối hợp với các cấp, ngành liên quan thiết kế, lập dự án phục hồi và phát huy giá trị di tích Văn Miếu Sơn Tây. Đến nay, một số hạng mục chính của Văn Miếu Sơn Tây đã được phục dựng trên khu đất cũ của di tích, với tổng diện tích gần 4 ha, nằm ở vị trí gần trục đường quốc lộ 32. Bao gồm các hạng mục chính trải dài theo trục thần đạo là trục bắc - nam, hướng vào chính là ở hướng Nam như: Văn Miếu Môn, Lầu Chuông, Lầu Khánh, Tả Vu, Hữu Vu, Thượng điện, Đại Bái đường, Đền Khải thánh, sân lễ hội, phía trước là hồ sen, xung quanh là vườn cây xanh.
Vào đầu năm 2018, UBND thị xã Sơn Tây đã bàn giao di tích lịch sử Văn Miếu, xã Đường Lâm cho Ban Quản lý di tích Làng cổ Đường Lâm trực tiếp quản lý. Di tích Văn Miếu sẽ tạo ra một điểm tham quan, nghiên cứu, góp phần khẳng định, chứng minh một địa chỉ tiêu biểu của kho bảo tàng văn hóa xứ Đoài, giáo dục, tôn vinh truyền thống hiếu học cho các thế hệ. Hiện tại ở đình Mông Phụ (xã Đường Lâm), dân làng vẫn còn gìn giữ được hai chiếc khánh (một chiếc bằng đồng, một chiếc bằng đá) để ở nhà tả - hữu mạc và 9 tấm bia đá là hiện vật được thu thập từ Văn Miếu Sơn Tây. Vào năm 2007, Văn Miếu Sơn Tây đã được Nhà nước ra quyết định xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
Văn Miếu Sơn Tây được khởi dựng cách đây gần 200 năm, đây thực sự là địa điểm có ý nghĩa lịch sử văn hóa kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu của thị xã Sơn Tây. Ngoài chức năng thờ Khổng Tử và các vị tiên hiền còn là nơi đào tạo nhân tài và lưu danh các bậc hiền tài mà danh tiếng và công lao của họ đã làm rạng danh quốc gia văn hiến, là biểu tượng của sự khuyến học, nơi để con dân Việt Nam soi vào để rèn luyện đức, tài, xây dựng một quốc gia văn minh, giàu đẹp.Văn Miếu Sơn Tây đã góp phần tô đẹp thêm truyền thống lịch sử văn hóa ở vùng Xứ Đoài nói riêng và vùng châu thổ sông Hồng nói chung. Tuy nhiên, để di tích xứng tầm với giá trị thì công tác bảo tồn và phát huy giá trị của Văn Miếu Sơn Tây luôn được chính quyền và nhân dân Sơn Tây quan tâm, chú trọng.
Nguồn: Phòng Văn hóa và Thông tin thị xã Sơn Tây
Nhà thơ Quang Dũng có nhiều bài thơ trữ tình rất hay, như: Cố Quận, Đêm Việt Trì, Tây Tiến, Đôi Bờ, Đôi Mắt Người Sơn Tây, Đường Trăng… nhưng Đôi Mắt Người Sơn Tây là bài thơ nổi tiếng và được nhiều người hâm mộ nhất.
Thi phẩm nói lên cuộc gặp gỡ của nhà thơ với người con gái trong thời loạn lạc, một thoáng quen biết rồi chia tay giã biệt trong cuộc tình buồn, ngắn ngủi:
Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến mới ra đi
Cách biệt bao lần quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
“Em ở thành Sơn chạy giặc về”, như vậy người con gái này quê ở Sơn Tây, nhưng nàng là ai, tên gì, họ gì, làm nghề gì, gia đình ra sao và bao nhiêu tuổi?
Nhà thơ Quang Dũng
Theo nhạc sĩ Phạm Duy, bạn học cùng lớp với Quang Dũng tại trường Thăng Long, Hà Nội – Quang Dũng ngồi phía sau Phạm Duy cách hai bàn. Ông to con, nước da trắng, thân hình rắn rỏi, khỏe mạnh, đẹp trai, trông như Tây nhưng rất hiền lành. Lúc Quang Dũng còn là đại đội trưởng trong Trung đoàn Tây Tiến đóng ở Hòa Bình thì Phạm Duy cũng ở trong ban Văn công hoạt động tại đấy. Quang Dũng được nghỉ phép về thăm gia đình ở làng Phùng Xá thuộc tỉnh Hà Đông, cách Hà Nội khoảng 40 cây số, gần với Sơn Tây (sau này Hà Đông và Sơn Tây nhập lại thành tỉnh Hà Tây, bây giờ cả hai nhập vào Hà Nội), nơi có con sông Đáy đẹp như tranh vẽ. Từ Hòa Bình ở phía Nam đi lên phía Bắc về Hà Đông phải đi qua Sơn Tây, anh tạt qua nơi có tên là Kinh Đào ở gần chợ Đại, thăm người yêu tên Nhật.
Do nàng tên “Nhật”, lại đẹp như người Nhật nên bạn bè thường gọi đùa là “Akimi”. Bà mẹ Akimi khi chạy tản cư từ thị xã Sơn Tây xuống Kinh Đào, có mở một quán cà phê nhỏ để buôn bán tạm, Quang Dũng mỗi lần về ngang qua quán thường hay ghé uống. Nàng chính là “người đẹp Sơn Tây”, nguồn cảm hứng cho Quang Dũng làm “Đôi Mắt Người Sơn Tây” đầy cảm xúc:
Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương
Và:
Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây…
Akimi sống với mẹ trong cái quán nước đơn sơ này, nhà thơ thường hay lui tới và có lần sáng tác ngay một bài thơ ca ngợi nàng dán lên vách nứa:
Tóc như mây cuốn, mắt như thuyền
Khuấy nước Kinh Đào sóng nổi lên
Ý nhị mẹ cười sau nếp áo
Non sông cùng đắm giấc mơ tiên…
(Đây là trích đoạn bài thơ mới phát hiện sau này do chính bà Akimi Nhật – định cư ở Hoa Kỳ cung cấp).
Qua thơ, người thưởng thức vẫn thấy một bóng hình đẹp lãng mạn của người con gái mặc dầu không biết mặt. Có lần Phạm Duy cùng Quang Dũng đi xe đạp về chợ Neo, hai người chạy song song trên đường làng. Thi sĩ kể về mối tình của mình với người đẹp Akimi và đọc lên bài thơ tặng nàng:
Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai
Sông xa từng lớp lớp mưa dài
Mắt kia em có sầu cô quạnh
Khi chớm heo về một sớm mai (Đôi Bờ)
Sau này, chiến tranh lan rộng, Akimi theo mẹ về thành phố, bỏ lại người xưa, tan vỡ một mối tình. Tới năm 1954, nàng di cư vào Nam, sống tại Sài Gòn, đã một thời là kiều nữ của Nhà hàng Tự Do, đến năm 1975 sang Mỹ định cư. Nàng đi để lại cho Quang Dũng một nỗi nhớ ơ hờ, chỉ biết:
Em đi áo mỏng buông hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào…
Bài thơ càng nổi tiếng ở Miền Nam hơn khi nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc rất hay, trở thành phổ biến qua giọng ca truyền cảm của nữ danh ca Thái Thanh và sau đó là danh ca Duy Trác.
Có người ngạc nhiên khi thấy nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ một lượt hai bài thơ trong cùng một bản nhạc, đoạn đầu lấy bài Đôi Bờ, đoạn sau là phần chính thì lấy bài Đôi Mắt Người Sơn Tây, rất độc đáo, hiếm thấy trong âm nhạc.
Như vậy, chính “người đẹp” Akimi Nhật là nguồn cảm hứng cho những bài thơ bất tử của Quang Dũng, và Phạm Đình Chương là người đã chắp cánh cho thơ Quang Dũng bay cao, bay xa mãi trong lòng người…
Người vợ của thi sĩ hiện nay
Phần dưới đây được trích từ bài viết của nhà báo Trần Hoàng Thiên Kim viết về chuyến viếng thăm bà cụ Bùi Thị Thạch, vợ nhà thơ Quang Dũng hiện đang ở “Nhà Tuổi Vàng”, một ngôi nhà nho nhỏ dùng làm viện dưỡng lão tư nhân.
Trước khi đến đây tôi vẫn đinh ninh Nhà Tuổi Vàng là một trung tâm to lớn, nằm trong khuôn viên rộng có vườn cây thoáng mát để hằng ngày các cụ đi dạo hoặc ngắm cảnh như nhiều trung tâm khác tại Hà Nội tôi đã có dịp viếng thăm. Khi đến đây rồi tôi mới biết Tuổi Vàng là một căn nhà nho nhỏ nằm trong khu dân cư Linh Đàm, được chị Bình thuê để mở nhà dưỡng lão. Vì diện tích hẹp nên hiện nay nhà chỉ có 9 cụ ở. Chị cho biết chị sắp mở thêm một Nhà Tuổi Vàng thứ 2 cũng gần đây để tiện chăm sóc.
Tôi lên tầng trên gặp cụ Bùi Thị Thạch. Năm nay cụ 94 tuổi, vợ của nhà thơ Quang Dũng. Căn phòng rộng chừng hơn 10 mét vuông nhưng khá thoáng vì có cửa sổ mở ra bên ngoài.
Cô Huyền, người trông nom cụ, quê ở Phú Xuyên, Hà Nội, vừa đưa bánh bích quy cho cụ ăn vừa cho tôi biết:
– “Cụ Thạch ăn uống giỏi lắm, bánh quy của chị Bùi Phương Thảo là con gái cụ gửi vào đấy. Cụ ăn thoáng cái là hết”.
Rồi chị ngồi xuống bên cạnh cụ, vuốt tóc, chải đầu cho cụ:
– “Chị coi, 94 tuổi mà da dẻ cụ hồng hào như thế này đấy. Hồi trẻ chắc cụ đẹp hết sức. Cụ ăn uống được lắm, ngày ba bát cháo hết vèo chưa kể các đồ ăn vặt. Cái gì cụ cũng ăn được, kẹo cứng thì cụ ngậm, lấy lưỡi đưa đẩy một lúc lâu cho tan rồi xin cái khác”.
Chị kể tiếp:
– “So với cách đây 5 năm khi mới vào Nhà Tuổi Vàng thì bây giờ cụ già yếu hơn nhiều. Hầu như cụ không còn nhận ra người chung quanh kể cả chị Thảo là con gái cụ. Tuần nào cứ đến cuối tuần là chị Thảo vào thăm mẹ nhưng có lúc cụ nhận ra, có lúc không. Cụ thường lẩm bẩm khe khẽ một mình rồi vỗ vỗ hai tay vào nhau hay mân mê cái chăn, cái gối. Cụ không đi lại được vì ảnh hưởng của chân bên trái bị gãy do ngã cách đây mấy năm khi chưa vào nhà dưỡng lão”.
Tôi hỏi cụ khá lớn:
– “Cụ còn nhớ nhà thơ Quang Dũng chồng cụ không ạ?”
Cụ ngớ ra, mắt như nhìn đi đâu đâu và đang nghĩ tới việc gì:
– “Ông Dũng ấy à? Có chứ! Mãi không thấy ông ấy về, sốt cả ruột. Kỳ này ông ấy đi đâu lâu thế, chắc viết lách nhiều”.
Tôi được biết ngày trước cụ là một thợ đan len rất giỏi, thậm chí nhờ hai bàn tay khéo léo ấy mà cụ đã nuôi được 5 người con ăn học nên người, ngoại trừ cậu con trai đầu lòng bị thất lạc từ nhỏ trong khi chạy tản cư:
– “Cụ còn đan len được không ạ?”
Cụ giương mắt nhìn tôi:
– “Đan hả? Làm gì có len mà đan. Muốn đan phải mua len tốt ở Hà Nội. Chạy tản cư thì chả có len tốt được”.
Cụ im lặng một lát rồi lại vỗ vỗ hai tay vào nhau, đầu óc để tận đâu đâu coi như không có tôi ngồi đấy. Cô Huyền cho biết cụ Thạch là một trong những cụ già hiền lành nhất trong Nhà Tuổi Vàng. Tối đến, uống thuốc xong là cụ ngủ một mạch cho đến 2 – 3 giờ sáng. Hầu hết các cụ ở đây đều bị lẫn. Cụ Thạch tuổi cao đã đành, có những cụ chỉ mới ngoài 60 – 70 nhưng xem ra còn nặng hơn. Đang đêm, nhiều cụ tỉnh dậy nói một mình như đang đối đáp với người khác, la hét hoặc đi lại trong nhà.
Sau khi đến thăm cụ Thạch, tôi tới thăm, trò chuyện với chị Bùi Phương Thảo, con gái út của cụ. Chị hiện là hiệu phó trường Tiểu học Võ Thị Sáu, Hà Nội. Không chỉ bận rộn công việc ở trường, chị còn thay mặt người cha quá cố của mình làm Trưởng ban Liên lạc Hội cựu chiến binh Trung đoàn 52 Tây Tiến và là thành viên ban chủ nhiệm Câu lạc bộ Văn nghệ xứ Đoài.
Tất bật với các công việc nhưng chị vẫn tranh thủ thời gian trò chuyện với tôi. Tôi kể chuyện mới gặp cụ Thạch ở Nhà Tuổi Vàng, chị nói:
– Thật ra thời gian đầu cụ cũng không muốn ở nhà dưỡng lão đâu. Khóc suốt đấy. Hễ thấy con cái đến là cụ năn nỉ: “Cho mẹ về nhà đi, mẹ nhớ nhà lắm”.
Nhưng rồi mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, nên tôi cố động viên mẹ ở lại để tiện việc thuốc men, chăm sóc. Bây giờ thì cụ lẫn hết cả rồi. Tuần nào tôi cũng vào thăm, ngồi chơi với cụ một lúc rồi lại phải về bù đầu với công việc.
– Cụ yếu thế, có bao giờ các anh các chị có ý định đưa cụ về nhà không? Nói dại mồm dại miệng chứ chẳng may cụ trăm tuổi, không gặp được con cháu?
Chị Thảo bùi ngùi:
– Mấy anh em chị em chúng tôi cũng có nghĩ đến. Vợ chồng người anh thứ hai tức anh lớn nhất của chúng tôi ở Thái Nguyên, rất xa trung tâm y tế, nếu cụ ở với anh chị ấy những lúc trái gió trở trời thì biết làm sao. Hồi trước cụ ở với người anh thứ nhì của chúng tôi cũng ở Hà Nội nhưng bây giờ anh ấy mất rồi, chị dâu đã hưu trí còn các cháu thì mắc đi học, không trông nom được. Hai chị gái tôi thì ở trong Nam, còn tôi tuy ở gần đây nhưng nhà là nhà tập thể, bé tí tẹo, chật chội, lại ở mãi trên tầng 3, tôi ở trong trường suốt ngày, đưa cụ về thì mình phải thuê ôsin trông nom cho cụ, đâu có tiền. Đành phải để cụ ở trong Nhà Tuổi Vàng vậy thôi, nếu chẳng may cụ có trăm tuổi thì trong ấy họ gọi điện thoại, mình chạy đến ngay cũng được.
Kết luận
Nhà thơ kiêm họa sĩ H.H.Trang năm nay 76 tuổi, nói chuyện với tôi rằng bà Vũ Hoàng Chương (nhũ danh Đinh Thục Oanh, chị ruột của nhà thơ Đinh Hùng) lúc sắp mất tội nghiệp lắm, nằm suốt hơn 2 năm trời do tai biến mạch máu não, lưng lột cả ra mà nhà lại nghèo, có người con trai tên Vũ Hoàng Tuân nhưng cũng nghèo, mắc đi làm tối ngày nên chị (H.H.Trang) phải lui tới trông nom săn sóc giùm cho tới khi bà mất.
Tôi nghiệm ra, làm nhà thơ thời nào cũng vậy, ai cũng nghèo chứ chẳng ai giàu, còn làm vợ nhà thơ thì lại càng khổ hơn, lúc nghèo đâu có đem thơ ra mà ăn được. Chỉ làm… người yêu của nhà thơ là tốt hơn cả, yêu nhau tha thiết, trở thành nguồn cảm hứng của “chàng”, sau đó trời bắt chia tay mỗi người mỗi ngả, nhớ nhau suốt đời có lẽ lại hay. Con cá vuột mất bao giờ cũng lớn hơn con cá bắt được. Bởi vậy nhà thơ Hồ Dzếnh viết:
“Tình chỉ đẹp những khi còn dang dở.
Đời hết vui khi đã vẹn câu thề”,
kể ra cũng đúng.
Tác giả bài viết: Đoàn Dự
Đôi Mắt Người Sơn Tây
Thơ: Quang Dũng
Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao lần quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
Vừng trán em vương trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương
Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn thôi lại nối điêu tàn
Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ
Em có bao giờ lệ chứa chan
Mẹ tôi em có gặp đâu không
Những xác già nua ngập cánh đồng
Tôi cũng có thằng con bé dại
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông
Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây
Cho nhẹ lòng nhớ thương
Em mơ cùng ta nhé
Bóng ngày mai quê hương
Đường hoa khô ráo lệ
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh phủ quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã hết sắc mầu chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta
Sơn Tây là cửa ngõ phía Tây của Hà Nội, cách trung tâm thủ đô 42 km về phía tây bắc. Thị xã rộng hơn 113 km2, dân số khoảng 180.000.
Theo "Thư tịch cổ" (Đại Nam nhất thống chí), Sơn Tây xuất hiện cách đây hơn 500 năm. Năm 1469 thời Lê Thánh Tông, Trấn sở Sơn Tây đóng tại xã La Phẩm, huyện Tiên Phong, Phủ Quảng Oai (nay là Ba Vì, Hà Nội), được gọi là Sơn Tây Thừa Tuyên.
Đến thời Lê Cảnh Hưng (1740-1786), Trấn sở được dời về xã Mông Phụ, huyện Phú Lộc, Phủ Quảng Oai (nay thuộc xã Đường Lâm, Sơn Tây). Năm Minh Mệnh thứ ba 1822, Trấn sở dời về thôn Thuần Nghệ, huyện Minh Nghĩa (nay là nội thành Sơn Tây).
Năm 1831, Trấn Sơn Tây đổi thành tỉnh Sơn Tây và trấn lỵ trở thành tỉnh lỵ. Năm 1942, Pháp đổi tỉnh lỵ thành thị xã Sơn Tây.
Cột cờ thành cổ Sơn Tây. Ảnh: VNP. |
Tháng 6/1965, thị xã Sơn Tây cùng với các huyện của tỉnh Sơn Tây sát nhập với tỉnh Hà Đông thành tỉnh Hà Tây. Đến năm 1979, thị xã Sơn Tây cùng một số huyện của tỉnh Hà Sơn Bình chuyển về thành phố Hà Nội.
Tháng 10/ 1991, thị xã Sơn Tây được tách và chuyển về trực thuộc tỉnh Hà Tây. Năm 2006, thành phố Sơn Tây được thành lập.
Tháng 8/2008, thủ đô được mở rộng địa giới hành chính gồm thành phố Hà Nội, tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (tỉnh Vĩnh Phúc) và bốn xã thuộc huyện Lương Sơn (tỉnh Hòa Bình). Thành phố Sơn Tây trở về với thủ đô Hà Nội.
Cuối năm đó, HĐND thành phố Sơn Tây họp bất thường ra nghị quyết đề nghị chuyển đơn vị này thành thị xã. Thị xã Sơn Tây hiện có 15 đơn vị hành chính, gồm 9 phường và sáu xã.
Đến thăm làng cổ Đường Lâm không chỉ là dịp du khách chiêm ngưỡng vẻ đẹp của quần thể di sản văn hóa Việt mà còn là dịp tốt để thưởng thức các món ăn truyền thống cực kỳ đặc sắc nơi đây. Vậy làng cổ Đường Lâm có những món đặc sản gì? Đừng bỏ lỡ bạn nhé.
Ăn gì ở làng cổ Đường Lâm?
Thịt quay đòn
Lý do khiến làng cổ Đường Lâm trở thành một trong những điểm đến lý thú gần Hà Nội cho mọi gia đình một phần là do nền ẩm thực làng cổ Đường Lâm với những món ăn dân dã nhưng không kém phần đặc sắc tại đây. Đường Lâm rất nổi tiếng với món thịt quay đòn với hương thơm, vị ngon đặc trưng.
Nguyên liệu làm ra món ăn này là thịt ba chỉ với lớp da dày, hạt tiêu, nước mắm và không thể quên lá ổi thái nhỏ. Tảng thịt được tẩm ướp vừa đủ; quấn lên đòn tre và quay trong lò than hoa 6 tiếng.
Trong khoảng thời gian đó người thợ nướng thịt cần tập trung để điều chỉnh mức nhiệt sao cho vừa đủ và vị trí của đòn quay đảm bảo thịt chín đều; ngon mắt.
Thành phẩm là miếng thịt vàng ruộm với phần bì giòn tan cùng hương thơm khó thể quên. Phần thịt quay ngọt đặc trưng; đậm vị khiến du khách ăn mãi không ngấy.
Trải nghiệm ngon khó cưỡng cùng thịt quay đòn da giòn rụm, thịt vừa chín tới
Gà mía | Đặc sản làng cổ Đường Lâm
Kinh nghiệm du lịch làng cổ Đường Lâm không thể bỏ qua món gà mía thơm ngon, hấp dẫn. Đây không chỉ là sản vật quý mà còn là món đặc sản tuyệt ngon từng chỉ dành riêng cho vua chúa. Loại gà này được nuôi lớn bằng ngô, thóc, sắn có dáng nhỏ, da đỏ au và khi trọng lượng khoảng 2kg da sẽ chuyển vàng.
Cho đến nay, gà mía là món ăn tượng trưng cho sự đủ đầy, sung túc thường được dâng lên tổ tiên khi Tết đến xuân về hay dịp lễ lạt, hội làng. Tuy không còn quý hiếm như xưa nhưng món ăn bổ dưỡng này vẫn được thực khách ưa chuộng nhờ hương vị thơm ngon, đậm đà rất riêng của nó.
Gà mía từng là món ăn chỉ dành để tiến vua
Tương chấm | Đặc sản làng cổ Đường Lâm
Ăn uống tại làng cổ Đường Lâm không thể thiếu món tương chấm trứ danh nơi đây. Tuy không quá rầm rộ như tương bần Hưng Yên nhưng loại nước tương làng cổ lại mang hương vị rất riêng chính nhờ công đoạn ủ tương, chọn nguyên liệu cực kỳ tỉ mỉ của những gia đình làm tương nơi đây. Nước tương đậm vị truyền thống khiến các món ngon ở làng cổ Đường Lâm càng thêm đặc sắc nao lòng thực khách.
Tương làng cổ Đường Lâm đậm vị truyền thống
Chè lam | Đặc sản làng cổ Đường Lâm
Chè lam là món ăn vặt đậm vị truyền thống rất thích hợp ăn vào thời tiết se lạnh. Người nấu có những bí quyết rất riêng từ việc pha nước gừng, đường đến tỷ lệ hòa trộn các nguyên liệu nhằm mang đến món quà vặt thơm ngon nhất định phải thử khi đến làng cổ.
Ngoài món chè lam, chè kho cũng là món ăn khá được ưa chuộng tại đây. Chè được đúc trong khuôn in chữ phúc, lộc với lớp giấy hồng bên ngoài thường được bày trong tiệc cưới hay hội làng.
Thưởng thức chè lam trong thời tiết se se lạnh là thú vui của người Hà Nội
Kẹo dồi
Ăn gì ở làng cổ Đường Lâm? Nhắc đến làng cổ, du khách đã từng đặt chân đến đây chắc chắn không thể nào quên các loại kẹo truyền thống gợi nhớ tuổi thơ của nhiều thế hệ như kẹo vừng, kẹo lạc, kẹo dồi.
Trong đó, kẹo dồi là loại kẹo được nhắc tới nhiều nhất. Nguyên liệu làm kẹo chỉ là mạch nha, lạc và đường. Tuy vậy, khâu làm kẹo đòi hỏi người làm cần có sức khỏe tốt và kinh nghiệm làm kẹo để mang đến “thức quà tuổi thơ” thơm ngon nhất.
Hướng dẫn cách đặt các món đặc sản ở làng cổ Đường Lâm
Chúng ta thường hay tham quan làng cổ Đường Lâm trong ngày vì đây là điểm du lịch gần Hà Nội; giao thông khá thuận tại. Tuy nhiên, trong nhiều năm gần đây, nhu cầu ở lại và đắm mình trong không khí làng quê yên tĩnh; tránh xa những ồn ào phố thị đang ngày càng tăng cao.
Ngoài các homestay đậm chất dân dã; làng cổ Đường Lâm còn xuất hiện nhiều gia đình nhận chế biến những món ăn đặc trưng; đậm chất văn hóa làng cổ cho quý khách thưởng thức.
Bạn có thể tham khảo homestay Đường Lâm; nhà bà Dương Lan hay nhà bà Hải Lợi; ông Hùng; ông Huyến là những địa chỉ nhận phục vụ các món ăn cho du khách tại làng cổ. Mỗi bữa ăn dao động khoảng dưới 100.000 đồng/người và bạn cần gọi điện để đặt trước.
Ghé thăm những homestay đậm chất dân dã và thưởng thức những món ăn ngon làng cổ
Ăn gì ở làng cổ Đường Lâm? Có thể nói đây là điểm đến tuyệt vời với rất nhiều những món ăn đặc sắc khiến du khách không thể bỏ lỡ. Ngoài những món ăn đặc trưng kể trên, ẩm thực tại làng cổ còn rất đa dạng, phong phú đang chờ du khách khám phá.
Câu chuyện về ngôi nhà thờ xây dựng trên nền giá trị Đường lâm đưa tín ngưỡng tôn giáo của giáo họ Mông phụ trở thành nét đẹp cổ còn lưu giữ lại.
Từ thanh tre mái nứa đến gỗ quý chạm trổ tinh tế, từ hàng rào râm bụt đến tường nhà đá ong, lịch sử các ngôi nhà cổ làm nên giá trị lịch sử .Con đường hẹp dẫn vào nhà thờ với nhiều ngã rẽ đến khó tìm, nhà thờ ở giáo họ Mông Phụ nổi bật giữa hàng trăm mái nhà cổ từ trên cao nhìn xuống. Giáo họ được thành lập vào năm 1912 với 60 hộ giáo dân, lúc đầu sinh hoạt còn khó khăn, nhà thờ còn cũ nát. Năm 1954 thánh đường đang khởi công xây dựng thì thời thế đổi thay nhiều giáo dân di cư vào miền Nam bôn ba, lúc này giáo họ chỉ còn 7 hộ dân.
Nhờ thờ giáo họ Mông Phụ được khởi công vào năm 1954
Đất nước giải phóng, người dân yêu đạo yêu nhà thờ gọp nhặt đồng tiền cộng thêm nguồn từ hải ngoại tiếp tục trùng tu ngôi thánh đường, lúc này giáo họ đã lên 38 hộ. Bởi đâu những thăng trầm của quá khứ đã đưa giáo họ qua những khó khăn này đến thử thách khác mà vẫn giữ được một nét tín ngưỡng đẹp đi liền nét cổ của Đường Lâm.
Ngôi nhà thờ mới hơn so với những ngôi nhà cổ thuần Việt, nét đạo chưa thể sánh với nét cổ đi cùng năm tháng của Đường Lâm nhưng khi nói về lịch sử công giáo ở Việt Nam thì Mông Phụ quả thực đáng được khen ngợi. Có thể chính do cái cổ của Đường Lâm đã làm nên cái cổ của họ đạo này.
Ngôi nhà được dùng làm trường học giáo lý do ông bà Đỗ Văn Ngọ công đức
Gắn bó với công việc của họ đạo suốt 20 năm ông Phan Thanh Xuyên tâm sự: “Đạo thuần phong mỹ tục lắm. Họ đạo tự quản được mọi thứ vì ở đây người ta không ai cành cạch với nhau điều gì. Quyền tín ngưỡng tự do mỗi người , mỗi gia đình. Cả cái xã này chỉ có mỗi làng này có nhà thờ, tối đến thứ 4 và thứ 7 Cha lại tới làm lễ.” Nhà thờ không được chạm khắc kì công tinh xảo, họ đạo không quá đông dân, sinh hoạt tôn giáo không khoa trương rầm rộ nhưng giữa làng Mông Phụ vẫn hiện hữu một niềm tin tôn giáo vững mạnh.
Kiến trúc trong nhà thờ khá mới và hiện đại.
12h chuông nhà thờ điểm, cổng nhà thờ mới được mở, mọi người trong giáo họ lại tới đọc kinh cầu nguyện. Vào các ngày lễ cuối tuần con cháu trên Hà Nội cũng tìm về, người dân đi đông đủ, khách du lịch cũng đến, thánh lễ tổ chức trang nghiêm mang đặc trưng của vẻ đẹp tôn giáo. Tới Đường Lâm khi thăm quan làng Mông Phụ đi qua bao nhà cổ, thưởng thức hương vị ẩm thực người Việt xưa và dìu dắt du khách ghé thăm nhà thờ Mông Phụ để biết rằng gắn liền với nơi đây có một nét đạo.
Người dân bắt đầu giờ kinh trưa
Cùng với nhiều ngôi nhà cổ ở Đường Lâm Nhà thờ giáo họ Mông Phụ thu hút nhiều khách du lịch tới thăm quan và cầu nguyện. Khi tiếng chuông nhà thờ vang người ta lại thấy riêng một nét đạo giữa ngôi làng Việt xưa.